img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Phân tích bài Đò lèn - Nguyễn Duy

Tác giả Minh Châu 14:20 30/11/2023 56,290 Tag Lớp 12

Hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài Đò lèn chi tiết. Ngoài ra, trong bài viết này VUIHOC sẽ cung cấp cho các bạn sơ đồ tư duy cùng bài văn mẫu phân tích theo hướng dẫn để các bạn có thể nắm chắc kiến thức, cùng theo dõi nhé!

Phân tích bài Đò lèn - Nguyễn Duy
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Đôi nét về tác giả và tác phẩm 

Nguyễn Duy tên khai sinh Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê hương ở Thanh Hoá. Không đơn thuần là một nhà thơ, Nguyễn Duy cũng là một người chiến sĩ cách mạng tích cực, ông cũng từng chiến đấu chống Mỹ ở chiến trường Khe Sanh, đường 9 Nam Lào, Quảng trị.

Từ khi còn là một học sinh phổ thông, Nguyễn Duy đã bắt đầu làm thơ. Năm 1973, với một chùm thơ: Hơi ấm Ổ rơm, Tre Việt Nam, Bầu trời vuông, ông đạt được giải Nhất trong cuộc thi thơ được tổ chức bởi báo Văn nghệ.

Thơ của Nguyễn Duy có sự kết hợp vô cùng khéo léo, hài hòa giữa cái nét duyên dáng, trữ tình với cái chất thế sự khá đậm đặc.
Về thơ tác giả có một số tác phẩm tiêu biểu như:

  • Cát trắng (1973)

  • Ánh trăng (1984)

  • Đãi cát tìm vàng (1987)

  • Mẹ và em (1987),…

Về tác phẩm Đò Lèn được học trong chương trình ngữ văn 12 , Nguyễn Duy đã viết về người bà ngoại của ông cùng với tất cả lòng yêu thương và sự biết ơn rất sâu sắc. Đò Lèn là tên địa danh có thật, quê ngoại của tác giả, là nơi tác giả đã sống trong suốt quãng đời tuổi thơ bên cạnh bà ngoại của mình. 

Bài thơ đã được viết theo thể thơ 8 chữ, bao gồm 2 phần như sau

  • Phần 1 (5 khổ đầu): Người cháu nhớ lại những kỉ niệm thời thơ ấu, nhớ lại hình ảnh người bà luôn tất bật, làm việc từ sáng sớm, vất vả nuôi dạy mình nên người.
  • Phần 2 (còn lại): Sự tỉnh ngộ muộn màng, sự ân hận, hối hận của người cháu khi ông vô tâm không hiểu cho nỗi vất vả của người bà.

Mỗi khổ thơ chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên, không viết hoa đầu dòng và cả bài thơ chỉ có một dấu chấm cuối. Phương thức trình bày cần có chủ ý để tạo nên sự liên tục về tư tưởng, tình cảm trong từng khổ thơ và xuyên suốt bài thơ.

 

2. Sơ đồ tư duy phân tích bài Đò lèn

Dưới đây là sơ đồ tư duy phân tích bài đò lèn của tác giả Nguyễn Duy

 

3. Dàn ý chi tiết Phân tích Đò Lèn

3.1 Mở bài 

Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm:
+ Nguyễn Duy là một nhà thơ có đặc trưng là những vẻ đẹp rất đời thường, những giá trị khiêm nhường nhưng lại vô cùng bền vững.
+ Bài thơ Đò lèn đã được sáng tác vào tháng 9 - 1938 trong thời gian tác giả Nguyễn Duy trở về quê ngoại để thăm bà sau rất nhiều năm xa cách nhưng người bà đã không còn.

3.2 Thân bài

Luận điểm 1: Hình ảnh người bà tảo tần trong kí ức của người cháu

- Những ký ức tuổi thơ của một cậu bé nghèo, vô tư, hay nghịch ngợm:

+ Luôn hào hứng trước những trò chơi: nào là bắt chim, chạy theo bà khi đi chợ, câu cá rồi trộm nhãn 

+ Say mê với những điều kỳ lạ, thế giới thần tiên: đi chơi ở đền Cây Thị, đi xem lễ đền sòng, mùi hương của hoa huệ, khói trầm và điệu hát văn cùng hình ảnh bóng dáng cô đồng. 

+ Nhắc lại kỷ niệm xưa, thể hiện sự trân trọng tuổi thơ, trân trọng quê hương cội nguồn, nhớ người bà kính yêu.

+ Hơn nữa, đó còn là sự tự soi mình, nhìn lại sự vô tâm của bản thân khi không biết quan tâm chăm sóc bà ngoại khi còn ở bên bà.

- Hình ảnh người bà qua kí ức của tác giả:

+ Bà đã âm thầm vượt qua mọi gian khổ, đánh đổi sức khỏe, mạo hiểm để nuôi đứa cháu mồ côi, nghịch ngợm giữa chiến tranh ác liệt.

+ Bà đã mò cua xúc tép, gánh chè xanh Ba Trại, thập thững trong những đêm hàn, bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất, bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.

=> Nét vẽ rất hiện thực, rất táo bạo trong hình ảnh người bà của nhà thơ; và cũng là hình ảnh người bà rất gần gũi với mỗi gia đình Việt Nam chúng ta.
+ Bà đã trở thành một phần trong tuổi thơ của người cháu đầy gắn bó, thân thương trong những lần “níu váy bà đi chợ Bình Lâm” 
Hình ảnh bà hiện lên với những đức tính hiền lành, thánh thiện, từ bi. Tác giả không phân biệt được giữa hư thực, tưởng như bà là hiện thân của tiên, của phật 

+ Sống với bà, được bà cưu mang, cảm nhận được tình thương ấp ủ, người cháu càng thấu hiểu được tấm lòng và tâm hồn của bà mình. 

=> Trước hình ảnh người bà chăm chỉ, giản dị nhưng tràn đầy nghị lực và vẫn hết mực yêu thương cháu khiến cho người cháu càng thêm kính trọng và yêu quý bà. Hình ảnh của bà cũng chính là hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam lúc nào cũng chịu thương, chịu khó và hy sinh cho con cháu và gia đình như cánh cò lặn lội trong suốt cuộc đời 

Luận điểm 2: Sự thức tỉnh muộn màng của người cháu

- Tình cảm của nhà thơ khi có những suy nghĩ về bà ngoại:

+ Thấu hiểu được nỗi cơ cực, tần tảo, tình yêu thương của người bà.

+ Thấu hiểu được sự tần tảo, nỗi cơ cực nhưng vẫn tràn đầy tình yêu thương của bà 

+ Yêu thương, tôn kính, tri ân sâu sắc đối với người bà của mình.

+ Sự ân hận, ngậm ngùi, xót đau muộn màng của người cháu:

“Khi tôi biết thương bà thì đã muộn

Bà chỉ còn một nấm cỏ thôi "

+ Nỗi xúc động da diết của đứa cháu khi đứng trước ngôi mộ của bà ngoại:

  • Dòng sông xưa: sông Chu, sông Mã, sông Đò Lèn.
  • "Dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi" : hàm nghĩa về một cuộc đời bể dâu, về sự đổi thay nhiều mặt của quê hương, xứ sở.
  • "Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi": Nỗi buồn man mác của tác giả cùng triết lý về cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn trước dòng chảy của thời gian vô tận. Cùng với đó là nỗi niềm hối hận về sự vô tâm của tuổi trẻ, không thể chăm sóc bà khi còn được ở kề cận. 

* Đặc sắc nghệ thuật
- Sử dụng những thủ pháp đối lập, phép so sánh đối chiếu

- Giọng điệu vô cùng thành thực, thẳng thắn

- Có sự hòa quyện giữa những tính cách dân gian và phong vị cổ điển.

- Hình ảnh vô cùng giản dị, gần gũi với cuộc sống ở đời thường, đan xe với chất hóm hỉnh dân gian.

3.3 Kết bài 

- Khái quát lại giá trị nội dung bài thơ

- Nêu cảm nhận của bản thân về bài thơ.

Đăng ký ngay khóa học PAS THPT để nhận được nhiều ưu đãi trước thềm năm học mới bạn nhé! 

 

4. Phân tích bài Đò lèn hay nhất 

4.1 Phân tích bài thơ Đò lèn - Mẫu 1 

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng có một nhận xét rất thú vị về nhà thơ Nguyễn Duy như sau: “Dáng Nguyễn Duy như mảnh đất hoang, và thơ Nguyễn Duy là cây quý mọc trên mảnh đất hoang này”. Có thể nói, thơ Nguyễn Duy khá đặc biệt khi ở những vần thơ ngang tàng, phóng khoáng và hồn nhiên, tưởng chừng như không có chút suy tư nào nhưng ẩn sâu bên trong lại ẩn chứa những ý nghĩa sâu xa đáng chiêm nghiệm về chính cuộc đời tâm hồn rồi chợt vỡ tan, khiến người ta giật nảy mình khi nghĩ về hành trình và cảm xúc của chính mình trong mấy năm qua. Tập thơ "Ánh trăng" là tiêu biểu cho lối viết này, là suy tư về trái tim chông chênh của một người đàn ông xấu hổ trước sự thủy chung son sắt của vầng trăng sáng trên cao. Nhưng rồi đến với Đò Lèn, người ta càng thấm thía hơn nỗi vất vả của người bà trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, cũng như tuổi thơ hồn nhiên, vô lo của đứa cháu. Rồi khi lớn lên, khi đã trưởng thành, đã chinh chiến nơi xa, khi nước nhà độc lập, tác giả quay trở về quê hương với những kỷ niệm về tuổi thơ, về bà cùng sự ân hận không chăm sóc được cho bà bởi giờ “bà chỉ còn là nấm cỏ thôi” 

Nguyễn Duy là một người lính thông tin tham gia kháng chiến chống Mỹ nên trong thơ ông hình ảnh người lính thường được nhắc đi nhắc lại, nhất là trong các đề tài về chiến tranh với quê hương đất nước. Ở đó, ông không đi tìm những vẻ đẹp oai hùng, anh hùng mà thay vào đó, Nguyễn Duy thường quan tâm đến những vẻ đẹp giản dị, bình dị, hằn sâu trong mỗi kí ức tuổi thơ, những vất vả, gian khổ lao động của người nông dân trong kháng chiến. Ở Đò Lèn cũng vậy, cả bài thơ là một cõi kỉ niệm tươi vui, hồn nhiên nhưng cũng là kỉ niệm của một thời chiến tranh khốc liệt, tàn khốc. Tuy nhiên, đọc thơ Nguyễn Duy không phải buồn mà nghĩ ngợi, chiêm nghiệm nên giọng thơ rất thoải mái, nhiều khi dù hiện thực vô cùng phũ phàng ông cũng dùng giọng thơ hóm hỉnh để che đậy. Xuyên suốt Đò Lèn là kí ức của Nguyễn Duy, trong đó hai khổ thơ đầu là tuổi thơ của tác giả với những năm tháng rong ruổi, rất hồn nhiên và mộc mạc.

"Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng"

Qua những hồi ức của tác giả Nguyễn Duy, chúng ta có thể thấy được tuổi thơ tươi đẹp đúng nghĩa, đó là hình ảnh cậu bé rất tinh nghịch, năng động, rong chơi khắp làng xóm, vừa "câu cá" vừa "bắt chim", đôi khi có cả 'ăn trộm". Rồi cũng rất thích tới những chỗ đông người, ưa thích món quà vặt nên mới "níu váy bà đi chợ". Các địa danh cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng hiện lên vô cùng gần gũi và gắn bó rất chặt chẽ với tuổi thơ của chính tác giả, mang đậm những nét văn hóa làng, xã của Việt Nam - cái đã làm nên Đất Nước theo như phong cách triết luận của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.

Chất thơ của Nguyễn Duy đậm sự mộc mạc và thôn dã trong các chi tiết kể về các phong tục trong văn hóa của người Việt  như "xem lễ đền Sòng", thấm đượm hồn quê với "với điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng", phảng phất hương thiêng liêng, kèm theo mùi hương thanh khiết và tao nhã của hoa huệ trắng. Với khung cảnh nghèo khó, bình dị và giản dị đến từng chi tiết "chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng" phản ánh tâm hồn trong sáng, giản dị, hồn nhiên và hài hước của một cậu bé nhà quê, miêu tả một làng quê xưa.Chỉ riêng điều này thôi cũng khiến người ta bồi hồi, tự hào và thêm yêu những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc ta.

Mặc dù tuổi thơ của Nguyễn Duy nghèo khó, khắc nghiệt nhưng tác giả vẫn rong ruổi và có những trải nghiệm nghịch ngợm như vậy, phần lớn là nhờ sự chăm sóc của bà ngoại. Trong tâm trí của tác giả, bà luôn hiện lên với hình ảnh gần gũi và thân quen nhất. Chính vì vậy, khi nhắc đến bà, trong lòng ông lại dâng trào lên những cảm xúc ngổn ngang, đó là sự tiếc nuối, xót xa cho người bà khổ cực của mình.

"Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn"

Nguyễn Duy nhẹ nhàng bày tỏ sự tiếc nuối, ngậm ngùi “tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”, điều đó không thể trách vì đối với một đứa trẻ đang tuổi ăn, tuổi lớn mà hồn nhiên, ngây thơ, ham chơi. Tuổi đó còn quá bé để suy ngẫm về cuộc sống cơm áo, phải đến khi trưởng thành, sau những lần chinh chiến nơi phương xa, Nguyễn Duy mới bừng tỉnh và nhớ lại khuôn mặt người bà năm xưa. 

Ký ức như một cuộn băng chầm chậm đưa tác giả trở về với những hình ảnh bụi bặm, ố vàng của những ngày ấy "bà mò cua xúc tép ở đồng Quan", những hôm "bà đi gánh chè ở Ba Trại", gót chân bà "thập thững những đêm hàn" cơ hồ đã nhẵn cả Quán Cháo, Đồng Giao. Hình ảnh người bà là tiêu biểu cho đức hi sinh, chịu thương, chịu khó, vươn đôi vai thon chịu đựng mọi gian khổ, một lòng vì con cháu của người phụ nữ Việt Nam xưa.

Có thể hình ảnh và cảm xúc người bà của Nguyễn Duy trong bài thơ này cũng giống của Bằng Việt trong bài thơ Bếp lửa "Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc", đó là tấm lòng yêu thương, kính trọng và xót thương cho những vất vả mà bà tôi đã phải trải qua suốt cuộc đời, để cho đứa cháu của bà có được một tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc và vô tư. Trong mắt Nguyễn Duy, tình bà của ông thật ấm áp, dịu dàng và thánh thiện vô cùng.

"Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm"

Nguyễn Duy đứng giữa "bờ hư-thực" để nghĩ về bà, cùng trái tim trong sáng và tinh tế của mình để cảm nhận về cháu và tình cảm của cháu, bà luôn dành cho cháu trai mình tình yêu thương nhân hậu, độ lượng, bao dung. Bà nhường cháu "củ dong riềng luộc sượng" trong những năm đói mòn, đói mỏi, cháu ăn vào mà như ăn cả tình thương ấm áp, dịu dàng của bà, ôi sao ngon ngọt thế cái tình thương "mùi huệ trắng hương trầm" ngọt ngào biết bao, tình yêu thiêng liêng, đầy kỷ niệm. Hương hoa huệ trắng của nhang trầm trở lại trong bài thơ, như ôm lấy cả một tuổi thơ nghèo khó của tác giả. 
"Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn"

Rồi chiến tranh tràn qua làng quê, Nguyễn Duy đã dùng một giọng điệu tâm linh để miêu tả cảnh khốc liệt này, để thơ ông nhẹ nhàng hơn, nghiêm trang hơn nhưng vẫn khắc sâu trong lòng người đọc những lời lẽ khôn tả. Hình ảnh khốc liệt mà bom đạn đã để lại còn lại trên làng xóm "nhà bà tôi bay mất/đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền". Chỉ một từ "bay" nhẹ thế thôi, nhưng nó đủ để diễn tả được hình ảnh cảnh xóm làng bị tàn phá tan hoang không còn lại gì. Nhưng tác giả cũng kể lại những suy nghĩ rất hồn nhiên khi còn thơ bé qua câu thơ “ thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết” nhưng người bà vẫn kiên cường trụ vững, hơn cả Thánh, Phật. Bà vẫn ở lại đây để mưu sinh, vẫn "đi bán trứng ở ga Lèn", để nuôi đứa cháu trai còn thơ dại của mình

Có thể nói, chỉ có tình cảm, sự hy sinh, chịu đựng của người bà, người phụ nữ Việt Nam mới bền chặt, vững chắc đến thế, thì dù bom đạn, mưa giông, thử thách của cuộc đời cũng không bao giờ bị tan vỡ. Một thời gian trôi qua, khi tác giả lớn lên và đi chiến trường, ông mới thấy thương hình bóng người bà cần cù, kiên cường của mình. Nhưng khi trở về quê hương chỉ còn lại nấm mồ đã xanh cỏ từ lâu của bà. Người bà mạnh mẽ và kiên cường ấy vẫn không thoát khỏi quy luật của thời gian và sự sống. Nguyễn Duy về với quê hương, về với bà ngoại, về với những xóm làng quen thuộc của tuổi thơ, mọi thứ đã có chút thay đổi và bà không còn ở đó nữa.

"Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi"

Tác giả xúc động nhìn dòng sông xanh biếc tượng trưng cho quê hương, chiến tranh đã qua đi một thời gian, quê hương đã lấy lại vẻ thanh bình vốn có cùng với sự nuối tiếc muộn màng khi không biết trân trọng, yêu thương bà khi còn bên cạnh.  Nay người đã rời xa trần thế, dưới gối Phật, chỉ còn là một nấm mồ xanh khiến tác giả càng cảm thấy ân hận, tiếc nuối về một tuổi thơ quá vô tư mà không để ý đến đôi mắt bà đã dần mờ đi, lưng bà đã còng và đôi tay cũng trở nên chai sần theo năm tháng. 

Khổ thơ cuối của bài thơ Nguyễn Duy bất ngờ đánh thức tâm hồn người đọc, khiến ai nấy giật mình, tự hỏi mình đã thực sự quý trọng, yêu thương những người thân yêu, những người đang có mặt bên mình hay chưa. Và mang một triết lý sống vô cùng sâu sắc: "Hãy học cách trân trọng, biết ơn những gì bạn đang có, trước khi để thời gian dạy cho bạn biết phải trân trọng những gì bạn đã từng có".

"Đò Lèn" là một bài thơ đặc sắc của Nguyễn Duy. Cùng với “Bếp lửa” của Bằng Việt, bài thơ “Đò Lèn” là bông hoa nghệ thuật tô điểm thêm hình ảnh người bà kính yêu trong mỗi gia đình. Hơn mười địa danh được nhà thơ nhắc đến càng làm cho ý thơ thêm đẹp và sâu sắc hơn: tình bà cháu, tình gia đình gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết. Đây là một bài thơ xúc động về kỉ niệm tuổi thơ của người lính với gia đình vô cùng giá trị của văn học dân tộc ta.

4.2 Phân tích bài thơ Đò lèn - Mẫu 2 

Nguyễn Duy viết bài thơ "Đò Lèn" vào tháng 9 năm 1983, được in trong tập thơ "Ánh trăng" xuất bản năm 1984. Bài thơ có hai câu bảy tiếng và một câu chín tiếng, phần còn lại trong bài thơ là 32 câu tám tiếng. Những câu thơ nối tiếp nhau bằng giọng điệu tâm tình và xúc động. Những địa danh quê hương thân thuộc, gắn bó với ký ức của tác giả từ thủa ấu thơ, từng nơi đều in dấu chân, hơi thở và nhịp sống. Bây giờ đây bồi hồi nhớ lại: Đò Lèn, cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng, Ba Trại,... nhớ lại hình ảnh người bà nghèo khổ, cần cù, nhưng độ lượng… được tái hiện trong lời thơ giản dị mà có sức lôi cuốn kỳ lạ, đầy ám ảnh. Cả bài thơ là tình cảm dành cho quê hương, cho bà và nỗi hổ thẹn của tác giả khi thờ ơ trước những khó khăn của bà trong suốt quãng đời tuổi thơ. 
 

Hai khổ thơ đầu trong bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm tuổi thơ của một đứa trẻ nghèo thích nghịch phá… cũng như những đứa trẻ khác: đi câu ở Cống Na, theo bà đi chợ Bình Lâm, bắt chim sẻ bên tai tượng Phật , và "đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần". Những câu thơ mộc mạc giản dị như một bức tranh gợi lên sự hồn nhiên, ngộ nghĩnh của tác giả khi còn thơ bé: 

"níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần"

Tác giả cũng từng "lên chơi đền Cây Thị" bằng đôi chân trần của người xuất thân nghèo khó, vẫn luôn háo hức trước những mùa lễ hội, vẫn "đi đêm xem lễ đền Sòng" cho dù phải đi rất xa. Rồi mùi hương của hoa huệ trắng quyện với khói trầm, cùng với điệu hát văn và bóng cô đồng "lảo đảo" đã in vào sâu trong tâm hồn tuổi thơ của tác giả Nguyễn Duy. 

"mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng".

Từ láy "lảo đảo" là điểm nhấn của bức tranh họa lên hình ảnh cô đồng với sự hiếu kỳ của một đứa trẻ trước những giá trị văn hóa, tâm linh. Nguyễn Duy cũng thường nhắc đến hoa huệ, hình ảnh hoa huệ trắng ngần, thơm ngát, thấm đẫm sự trong trắng của tâm hồn ông.  Hoa huệ còn được nhắt đến trong bài thơ viết về mẹ của tác giả: 

"Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn".
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)

Sức cuốn hút và sự ám ảnh của bài thơ “Đò Lèn” chính là hình ảnh người bà của Nguyễn Duy. Tất cả sự ân hận, tự trách bản thân mình vô tâm đã được thể hiện ở câu thơ: “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”. Rồi tiếp sau đó là những câu thơ miêu cả cuộc sống gồng gánh, kiếm ăn của bà để nuôi đứa cháu nhỏ của mình. Nhà nghèo, để có tiền mua gạo nuôi cháu trai, bà đã đến đồng Quan “mò cua xúc tép”. Bà cõng trên lưng gánh chè xanh Ba Trại thuê, chiếc quang gánh dài và nặng trĩu, đêm tối gió lộng, bà đi bằng đôi chân “thập thững”, đôi vai bà “chín dạn” vì phải gánh những khó khăn, vất vả hàng ngày. Từng bước, một cao rồi một thấp, chốc chốc lại nghiêng ngả, bước đi trong những ngã tư đường trong đêm tối và trong gió lạnh. Bà làm việc mà không màng khó khăn, vất vả. Đó là hiện thân của đức hy sinh, chịu thương chịu khó và nỗ lực, là hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử hào hùng. 

"Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn".

Rồi những năm đói, có củ riềng luộc bà cũng dành cho cháu. Từ vị ngọt của củ riềng, người cháu “nghe” được mùi hương huệ trắng, hương trầm, những mùi hương quen thuộc hằng ngày. Nguyễn Duy đã lấy hương hoa huệ trắng và hương trầm để nói lên tình yêu bao la của mình. So sánh bà như là tiên, là Phật. Trong những năm tháng đói kém đó, hình ảnh bà lo từng miếng ăn cho cháu khiến tác giả như lạc vào thế giới "hư và thực", hình ảnh bà, hình ảnh Tiên, Phật như hòa vào nhau, thể hiện sự tôn kính tận đáy lòng của tác giả. 

" Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm" 

Khổ thơ tiếp theo tác giả đã miêu tả thảm cảnh quê hương khi chiến tranh nổ ra. Trong thời buổi khói lửa, bom đạn dội như mưa làm nhà bà "bay mất", đền Sòng cũng "bay", chùa chiền "bay tuốt cả",... Khi mà "thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết" thì bà ngoại vẫn trụ vững giữa dòng đời, bà vẫn cố gắng bươn chải kiếm sống để lo cho cháu, bà vẫn chống chọi với muôn vàn khó khăn lam lũ. Trong thời kỳ vô vàn khó khăn đó, mọi thứ dường như đều rời bỏ mà đi, đến " thánh", "phật" còn "rủ nhau đi hết" thì bà vẫn hàng ngày "đi bán trứng ở ga Lèn" để lo cho cháu. Đó là nét vẽ rất chân thực về hình ảnh người bà của tác giả cũng như người bà mọi gia đình.

"Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn" 

Đoạn thơ cuối thể hiện niềm xúc động của người cháu khi đứng trước mộ bà được miêu tả như lời tự sự, lời tự trách của tác giả khi quay về quê hương: 
"Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi".

Sự kết hợp hài hoà giữa cảm xúc và triết lí đã tạo nên tâm trạng sâu lắng của những dòng thơ cuối. Tác giả nhắc đến hình ảnh dòng sông gắn liền với tuổi thơ, đó có thể là sông Chu, sông Mã, sông Đò Lèn nhưng dù có là dòng sông nào thì bao năm vẫn "bên lở bên bồi". Những năm dài chiến tranh và hỗn loạn đã qua, quê hương trở lại với vẻ thanh bình thì câu thơ “dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi” lại mang nỗi buồn man mác về sự đổi thay và phát triển của quê hương. Lúc này, khi tác giả đã trải qua những năm tháng tôi luyện trên chiến trường, đã trải nghiệm cuộc sống, nỗi lo của người trưởng thành, đã biết yêu thương, quan tâm những người xung quanh thì cũng đã muộn. Hai câu thơ cuối là sự tự trách bản thân của tác giả, là sự bàng hoàng khi nhận ra tất cả đều đã quá muộn màng. Bà ngoại đã ra đi mãi mãi, còn tác giả sẽ không còn cơ hội để chăm sóc cho bà như bà đã chăm sóc ông khi còn thơ bé. Hai câu thơ cuối cũng thể hiện cái nhìn của tác giả về triết lý cuộc đời, về vòng xoay của vũ trụ và thời gian, những triết lý về tình cảm gia đình sâu sắc. Hãy trân trọng những tình cảm tốt đẹp và những người thân quen ở thời điểm hiện tại, đừng để mất đi rồi mới tự trách bản thân như chính câu chuyện của ông. 

"Đò lèn" của Nguyễn Duy không chỉ là một bài thơ về bà, về tuổi thơ của ông khi sống bên bà mà còn thể hiện tình cảm, sự thấu hiểu những khó khăn, vất vả của người phụ nữ Việt Nam trong thời chiến. Từ hình ảnh của bà, chúng ta càng nhiểu thêm về sự hi sinh, tấm lòng từ bi, nhân hậu của người phụ nữ Việt, của người bà, người mẹ trong gia đình. Bên cạnh đó, bài thơ còn nhắc nhở mỗi chúng ta, hãy quan tâm đến những người ở bên cạnh khi còn có thể. Đừng để sau này phải hối hận, muộn màng mới nhận ra.  

Để phân tích được một tác phẩm văn học, các em học sinh cần nắm rõ được nội dung bài học. Bên cạnh đó là những bài giảng truyền cảm hứng văn học, giúp các em có nguồn cảm hứng khi học văn. Phân tích tác phẩm văn học không hề khó nếu các em học theo lộ trình mà khóa học PAS THPT của vui học. Tham khảo ngay khóa học để "làm văn" không còn là điều khó khăn nhé!  

PAS VUIHOCGIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+  

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích  

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô  

⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi

⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập

Đăng ký học thử miễn phí ngay!!

Trên đây là hướng dẫn lập dàn ý và cách phân tích bài Đò lèn. Hy vọng với những gợi ý của VUIHOC, các em học sinh có nguồn tài liệu tham khảo thêm cho bài học của mình.

>> Mời các em tham khảo thêm: 


 

Banner afterpost tag lớp 12
| đánh giá
Bình luận
  • {{comment.create_date | formatDate}}
Hotline: 0987810990