img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề sách cánh diều 10

Tác giả Hoàng Uyên 11:08 31/01/2024 1,221 Tag Lớp 10

Báo cáo nghiên cứu là một phần vô cùng quan trọng, nó giúp người viết tóm tắt được những gì mình tìm hiểu được và để người đọc có thể hiểu được quá trình nghiên cứu của người viết. Vì vậy, VUIHOC đã Soạn bài Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề sách cánh diều 10 để gợi ý cho các em cách làm phần báo cáo này.

Soạn bài Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề sách cánh diều 10
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Soạn bài Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề sách cánh diều 10: Định hướng

1.1 Nhan đề cho biết về thông tin gì?

→ Thực trạng văn hoá đọc của các bạn sinh viên trường ĐH Công nghiệp Hà Nội và phương pháp phát triển văn hoá đọc

1.2 Phần tóm tắt có nhiệm vụ như thế nào?

→ Nêu ra ý chính trong toàn bộ bài nghiên cứu

1.3 Chú ý nội dung chính trong phần Giới thiệu.

→ Nhiệm vụ nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện trong trường ĐH Công nghiệp HN

1.4 Tác giả đã trích dẫn những gì và cách trích dẫn như thế nào?

→ trích dẫn thông tin cụ thể từ những nguồn tham khảo, mỗi trích dẫn đều được chú thích phần tên tác giả cùng với năm xuất bản. 

1.5 Phương pháp nghiên cứu tại đây là gì?

→ Nghiên cứu định tính

>> Mời bạn tham khảo: Soạn văn 10 Cánh diều 

1.6 Chú ý những tiêu đề nhỏ để biết kết quả chính trong bản báo cáo.

- Nhu cầu đọc

- Thói quen đọc 

- Nguồn tài liệu

- Nhu cầu và hứng thú đọc

1.7 Phương tiện hỗ trợ ở đây có phù hợp hay không?

→ Phương tiện hỗ trợ là phần biểu đồ thể hiện kết quả khảo sát, vô cùng phù hợp với bài nghiên cứu

1.8 Những bảng biểu này có tác dụng gì?

→ Giúp người đọc có thể so sánh cũng như phân tích và nhận xét được về văn hoá đọc của 2 nhóm người đọc

1.9 Nội dung chính trong phần kết luận là gì?

→ Ý nghĩa của văn hoá đọc

1.10 Những tài liệu tham khảo đó có liên quan tới nội dung báo cáo như thế nào?

→ Những tài liệu ấy đã được trích dẫn và sử dụng ở trong báo cáo

Lộ trình khóa học PAS THPT sẽ được thiết kế riêng cho từng bạn học sinh, phù hợp với khả năng của các em cũng như giúp các em từng bước đạt điểm cao trong mọi kỳ thi chung và riêng.

2. Soạn bài Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề sách cánh diều 10: Thực hành viết

Đề bài: Em hãy viết một báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường luật thông qua một số bài thơ trung đại đã học

Bài làm

PGS - TS Lã Nhâm Thìn đã từng nhận xét rằng: “Thơ Nôm Đường luật là một trong những thể loại độc đáo và đạt được nhiều thành tựu lớn bậc nhất của văn học Việt Nam. Có nhiều tác giả, cũng có rất nhiều những đỉnh cao giá trị văn học thuộc về thơ Nôm Đường luật”. Quả đúng như vậy, thơ Nôm Đường luật là một thể loại được xem là “có một không hai”, nó dường như luôn có một ma lực hấp dẫn khiến cho không ít người tâm huyết với nó phải đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu để tìm ra được ngọn nguồn của sức hấp dẫn đó. Và chúng tôi cũng chẳng phải là ngoại lệ. Thơ Nôm Đường luật được biết đến là một “thể loại có nguồn gốc ngoại lai”, chịu ảnh hưởng vô cùng sâu sắc từ thể loại thơ Đường luật Trung Quốc. Song, ảnh hưởng nhưng không bị “hoà loãng” hay “hòa tan”. Trên bước đường dân chủ hóa và dân tộc hoá nền văn học Việt Nam, ông cha ta đã một mặt tiếp thu được những thành tựu văn học của thơ Đường, mặt khác lại không ngừng Việt hoá và sáng tạo nhằm biến chúng thành một di sản văn học mang đậm những dấu ấn phong cách con người trung đại Việt Nam. Trong quá trình học tập, chúng tôi đã nhận thấy có rất nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về quá trình tiếp thu cũng như Việt hoá và sáng tạo thể thơ Đường luật trong thơ Nôm của dân tộc, song xuất phát từ một hệ thống cơ bản về đặc trưng thể loại thơ Đường luật thì chưa có bất cứ công trình nghiên cứu nào đề cập được một cách sâu sắc. Với tư cách là một người nghiên cứu khoa học về kết quả nghiên cứu liên quan đến đặc điểm hình thức thơ Đường Luật thông qua một số bài thơ trung đại đã học bao gồm: Bạn đến chơi nhà, Qua đèo Ngang, Bánh trôi nước,... Một mặt, để làm quen với những thao tác nghiên cứu văn học, mặt khác đó cũng là một cơ hội để tiếp cận với một hiện tượng văn học vô cùng hấp dẫn và sự phong phú của nền văn học trung đại Việt Nam.

Thơ đường luật hay còn được gọi với cái tên khác đó là thơ luật đường. Đây là một thể thơ đường với những luật được xuất hiện từ thời của nhà Đường ở Trung Quốc. Là một trong những thể loại thơ đường phát triển hết sức mạnh mẽ không chỉ ở trên chính quê hương của nó mà còn nổi tiếng tại một số đất nước lân cận với tư cách như là thể loại thơ tiêu biểu nhất của nhà Đường nói riêng hay là những tinh hoa của thi ca Trung Hoa nói chung. Người ta còn gọi thơ Đường luật là thể loại thơ cận thể để đối lập cũng như phân biệt với các thể loại thơ cổ thể được sáng tác không tuân theo những luật ấy. Thơ Đường luật có một hệ thống những quy tắc vô cùng phức tạp, những quy tắc ấy đã được thể hiện ở 5 điều đó là Niêm, Luật, Đối, Vần và Bố cục. Xét về hình thức thì thơ đường luật đã được chia thành những dạng như: Thất ngôn bát cú: tám câu và mỗi câu sẽ bao gồm 7 chữ. Đây được xem là một dạng phổ biến nhất trong thể thơ Đường luật. Thất ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu bao gồm 7 chữ. Ngũ ngôn bát cú: 8 câu, mỗi câu bao gồm 5 chữ. Ngũ ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu bao gồm 5 chữ. Ngoài những dạng được kể phía trên thì còn có rất nhiều dạng không được phổ biến khác. Người Việt Nam khi làm thơ đường luật cũng hoàn toàn tuân theo các nguyên tắc ấy.

Luật thơ Đường căn cứ vào thanh bằng và thanh trắc, và sử dụng các chữ thứ 2-4-6 và 7 ở trong một câu thơ nhằm xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm những chữ có dấu huyền hoặc không dấu; thanh trắc bao gồm những dấu: sắc, ngã, hỏi, nặng.

Nếu chữ thứ 2 trong câu đầu tiên sử dụng thanh bằng thì gọi đó là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 trong câu đầu sử dụng thanh trắc thì gọi đó là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 cùng với chữ thứ 6 thì phải giống nhau về thanh điệu và chữ thứ 4 thì phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì đến chữ thứ 4 phải sử dụng thanh trắc, hoặc ngược lại. Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định ấy thì được gọi là "thất luật".

Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" ở trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có những chữ "tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đó đều là thanh trắc còn đến chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó chính là bài thất ngôn bát cú luật trắc.

Luật bằng trắc ở trong thể Thất ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn bát cú có thể liệt kê nôm na như sau, nếu chỉ vần bằng bằng chữ "B" và vần trắc bằng chữ "T", những vần không có luật thì để trống, thì luật trong những chữ thứ 2-4-6-7 có thể viết như sau:

1. Luật bằng trắc

Luật thơ Đường sẽ căn cứ dựa vào thanh trắc và thanh bằng, và sử dụng những chữ thứ 2-4-6 và 7 ở trong cùng một câu thơ nhằm xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm các chữ không có dấu hoặc có dấu huyền; thanh trắc bao gồm tất cả những dấu còn lại: sắc, ngã, hỏi, nặng.

Nguyên tắc cố định trong một bài thơ Đường luật là ý nghĩa của hai câu 3 với 4 phải "đối" nhau và hai câu 5 với 6 cũng phải "đối" nhau. Đối sẽ được hiểu là sự tương phản (về nghĩa của cả từ đơn, từ ghép và từ láy) bao gồm cả sự tương đương ở trong cách sử dụng những từ ngữ. Đối chữ: danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ. Đối cảnh: trên đối với dưới, cảnh động đối với cảnh tĩnh... Nếu một bài thơ Đường luật mà những câu 3, 4 không đối nhau, những câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi "thất đối".

Ví dụ: hai câu 3 và 4 ở trong bài thơ Qua Đèo Ngang của tác giả Bà Huyện Thanh Quan:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông rợ mấy nhà,

"Lom khom" đối với "lác đác" (hình thể với số lượng - thực ra hai câu đó chưa phải đối một cách hoàn chỉnh), "dưới núi" đối với "bên sông" (về vị trí địa hình), song nếu nối hình ảnh của hai câu phía trên "lom khom dưới núi" với "lác đác bên sông" thì vì một câu diễn tả về cảnh động, còn một câu lại diễn tả về cảnh tĩnh, nên sự đối lập này có thể chấp nhận được. Một điểm cần chú ý đó là cách sử dụng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu phía trên, và "lác đác" chỉ số lượng trong câu dưới. Hai vế tiếp đó là "tiều vài chú" đối với "rợ mấy nhà" (đối lập về số lượng với tĩnh/động). Sự đối lập của hai vế cuối có thể được coi là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hay Câu đối Việt Nam nhằm hiểu thêm về luật đối trong thơ.

Nhị tứ lục phân minh (Câu 2,4 và 6 phải đối ý).

2. Niêm

Những câu trong một bài thơ Đường luật giống nhau về luật sẽ được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây sẽ được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi mà chữ thứ nhì trong cả hai câu cùng một luật, hoặc cùng là thanh bằng, hoặc cùng là thanh trắc, thành ra bằng niêm với bằng và trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả có sơ suất mà làm thành không niêm thì bài ấy sẽ bị gọi là "thất niêm".

Nguyên tắc niêm ở trong một bài thơ Đường luật chuẩn (thể thơ thất ngôn bát cú) như sau:

Câu 1 niêm với câu 8

Câu 2 niêm với câu 3

Câu 4 niêm với câu 5

Câu 6 niêm với câu 7

Còn đối với Nguyên tắc niêm trong thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt: Câu 2 niêm với câu 3 và câu 4 niêm với câu 1. Chẳng hạn với luật vần bằng:

- B - T - B B

- T - B - T B

- T - B - T T

- B - T - B B

- B - T - B T

- T - B - T B

- T - B - T T

- B - T - B B

Ví dụ: Xét ở trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 với thứ 3:

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Sổ tay tổng hợp kiến thức môn Ngữ Văn giúp các em đạt điểm cao thi tốt nghiệp THPT. Đăng ký đặt hàng để nhận ưu đãi giảm giá cực tốt từ VUIHOC nhé!

3. Vần

Vần là những chữ có cách phát âm khá giống nhau, hoặc gần giống nhau, được sử dụng để tạo nên âm điệu cho thơ. Trong một bài thơ Đường luật chuẩn, vần được sử dụng tại cuối những câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu ấy được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường luật mà chữ cuối cùng của một trong những câu này không giống nhau về vần thì sẽ được gọi "thất vần".

Những chữ có vần giống nhau một cách hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau sẽ được gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường luật sử dụng vần thanh bằng, nhưng cũng có những ngoại lệ.

Ví dụ: hai câu 1 và 2 trong bài Qua đèo Ngang của tác giả Bà Huyện Thanh Quan:

Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Hai chữ "tà" và "hoa" sẽ được xem là vần với nhau, nhưng tại đây là "vần thông" vì chỉ có phát âm gần giống nhau.

4. Bố cục

Bố cục của một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật dựa theo truyền thống thường được chia thành 4 phần: Đề, Thực (hay Trạng), Luận và Kết. "Đề" bao gồm 2 câu đầu trong đó câu đầu tiên sẽ được gọi là câu phá đề, câu thứ 2 sẽ được gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần phía sau. "Thực" bao gồm 2 câu tiếp theo, giải thích rõ ràng về ý đầu bài. "Luận" bao gồm 2 câu tiếp theo nữa, bình luận về 2 câu thực. "Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý cho toàn bài, trong đó câu số 7 được gọi là câu "thúc" (hoặc "chuyển") và câu cuối là "hợp". Có người cho rằng Hai câu đề sẽ giới thiệu về thời gian, không gian cùng với sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày và mô tả về sự vật, sự việc. Hai câu luận sẽ diễn tả suy nghĩ, thái độ và cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khái quát lại toàn bộ nội dung của bài theo hướng mở rộng ra và nâng cao hơn.

Đối ý: Một nguyên tắc cố định ở trong một bài thơ được sáng tác dựa trên thể loại đường luật chính là ý nghĩa của câu thứ 3 và thứ 4 phải đối nhau, cả 2 câu thứ 5 và thứ 6 cũng phải đối nhau. Đối chính là sự tương phản về nghĩa của cả những từ đơn, từ láy và từ ghép, nó bao gồm cả sự tương đương ở trong cách mà tác giả sử dụng các từ ngữ. Đối chữ chính là động từ đối với động từ, danh từ đối với danh từ. Đối cảnh là việc cảnh động đối với cảnh tĩnh, trên đối với dưới… Nếu ở trong một bài thơ đường luật mà những câu 3 và 4 không đối nhau hoặc những câu 5 và 6 không đối nhau thì sẽ được gọi “thất đối”.

Thơ thất ngôn bát cú có luật lệ gò bó và khó làm nhất nhưng chính điều ấy lại được người xưa ưa thích hơn, thường sử dụng để bày tỏ về tình cảm ý chí, ngâm vịnh và xướng họa... Và trong tất cả những kỳ thi thời xưa đều bắt thí sinh phải làm.

Tại quê hương của Đường thi cũng chính là nơi mà phong trào tập cổ và sáng tác thơ Đường luật một cách rầm rộ nhất, lý luận thi pháp thơ Đường luật Trung Quốc không có khái niệm là Đề, Thực, Luận và Kết mà thay bằng khái niệm đầu liên, hàm liên, cảnh liên và vĩ liên, nói ngắn gọn bằng tổ hợp gồm bốn từ Khởi (khai), Thừa, Chuyển và Hợp. Tuy nhiên cách phân chia ấy cũng không khác gì với cách phân Đề, Thực, Luận và Kết về mặt ý nghĩa. Tuy nhiên, đa phần tài liệu của Việt Nam vẫn đi theo cách chia đó là Đề, Thực, Luận và Kết.

Một quan niệm khác được áp dụng cấu trúc 2-4-2 cho bài thơ có thể thơ thất ngôn bát cú. Theo đó quan niệm ấy đứng ở góc độ không gian và thời gian nghệ thuật nhằm khảo sát toàn bài dựa trên logic hai câu đầu với hai câu cuối bài thơ Đường luật thường thì yếu tố thời gian sẽ chiếm vị trí chủ đạo, còn bốn câu giữa thì trật tự không gian là chủ đạo và tác giả dường như đã dừng lại để quan sát sự vật.

Cũng cần phải nhắc đến quan điểm "Cảnh-Tình" của Kim Thánh Thán khi chia bài thất ngôn bát cú ra thành hai phần bằng nhau, theo đó bốn câu phía trên của bài nặng về cảnh trong khi bốn câu dưới nặng về tình.

Hiện nay, những nhà nghiên cứu có xu hướng không cố gắng tìm quy luật chung về bố cục để có thể áp dụng trong hàng loạt bài thơ mà áp dụng quan điểm nghiên cứu đã có từ thời Minh mạt Thanh sơ tại Trung Hoa, quan điểm bám sát và tuân thủ về cách phân chia bố cục của mỗi bài thơ theo mạch cảm xúc của thi nhân được biểu hiện trong bài. Một ví dụ là đó là bài thơ hết sức nổi tiếng Qua đèo Ngang của tác giả Bà Huyện Thanh Quan hoàn toàn có thể được phân tách dựa trên bố cục 1/7, hoặc bài Bạn đến chơi nhà của tác giả Nguyễn Khuyến có thể dựa vào bố cục 7/1 hoặc 1/6/1.

Khi làm thơ Đường Luật thì chúng ta cần phải giữ cho đúng niêm luật. Nếu không tuân theo đúng quy tắc thì cho dù nội dung bài thơ của bạn có hay tới mấy đi nữa thì cũng không được chấp nhận.
 

PAS VUIHOCGIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+  

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích  

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô  

⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi

⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập

Đăng ký học thử miễn phí ngay!!

 

Bài viết phía trên chính là phần Soạn bài Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề mà VUIHOC đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng cho các em. Hy vọng sau khi tham khảo bài viết, các em có thể tự viết báo cáo và đạt được điểm cao trong phần này. Ngoài bài soạn này ra, nếu như muốn tham khảo thêm bất kỳ bài soạn nào khác có trong chương trình ngữ văn nói riêng và những bài soạn khác của môn học khác nói chung, các em hãy truy cập ngay vào trong website của VUIHOC là vuihoc.vn để đăng ký khoá học nhanh chóng và trải nghiệm cùng với các thầy cô giáo VUIHOC vô cùng vui vẻ và nhiệt huyết nhé!

>> Mời bạn tham khảo thêm: 

Banner afterpost lớp 10
| đánh giá
Bình luận
  • {{comment.create_date | formatDate}}
Hotline: 0987810990